

Từ một chủ trương đúng
Năm 2008, xác định cây cao su có thể vững vàng phát triển trên đồng đất Lai Châu, UBND tỉnh Lai Châu đã phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam để phát triển cao su đại điền với quy mô đến năm 2020 là 30.000ha theo hình thức vận động người dân góp đất, chia sản phẩm, nhà nước hỗ trợ người dân chuyển đổi đất, chuyển đổi sản xuất, hỗ trợ phát triển hạ tầng vùng cao su và tổ chức sắp xếp lại dân cư, hình thành các làng bản công nhân cao su. Để việc phát triển cao su đại điền bền vững, tạo việc làm, thu nhập và đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao su, vừa đem lại lợi nhuận cho các công ty cổ phần cao su, vừa đảm bảo môi trường sinh thái, đặc biệt là kết hợp giữa phát triển cao su với bảo vệ và phát triển rừng, tăng năng lực phòng hộ trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 145/2008/NQ-HĐND về Chương trình phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Lai Châu đến năm 2015. Sau gần 8 năm thực hiện còn một số mục tiêu chưa đạt được song cây cao su đã và đang khẳng định hướng đi đúng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của tỉnh.
Cán bộ Hạt Kiểm lâm huyện cùng bà con kiểm tra chất lượng mủ cao su sau thu hoạch.
Đến xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ hôm nay, chúng tôi cảm nhận được màu xanh bạt ngàn của cao su đang lên xanh tốt trải dài trên triền đồi dọc theo Quốc lộ 100 và Tỉnh lộ 132. Bà con địa phương cùng công nhân Nông trường cao su Phong Thổ đang nỗ lực chăm sóc cao su. Ông Đèo Văn Nhung – Trưởng bản Phai Cát 1 tâm sự: “Thời tiết ở đây cũng khá thuận lợi với tầng đất dày, thời tiết ấm áp… phù hợp cho cây cao su sinh trưởng và phát triển tốt. Diện tích cao su trồng từ năm 2006 của bản hiện có 4ha đang cho thu hoạch hàng chục triệu đồng/năm. Do vậy, bà con rất tin tưởng vào loại cây công nghiệp lâu dài cho giá trị kinh tế cao, giúp người dân đổi đời”. Được biết, năm 2006, huyện triển khai trồng thí điểm cây cao su trên địa bàn 3 xã: Khổng Lào, Hoang Thèn, Ma Ly Pho, tỷ lệ cây sống đạt trên 86%. Đến nay toàn xã đã trồng được gần 500ha cao su đại điền và tiểu điền, chủ yếu tại các bản: Phai Cát 1, Phai Cát 2, Huổi Nả, Co Muông..., trong đó, 20ha đang cho thu hoạch. Không chỉ ở Khổng Lào, nhiều địa phương trong tỉnh cây cao su đang khẳng định vị thế kinh tế cũng như khả năng thích nghi với điều kiện sinh thái ở địa phương, có thể phát triển theo hướng tập trung hàng hoá trên quy mô lớn tạo thành một ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.
Đến triển vọng vùng cao su đại điền
Cây cao su được tỉnh khẳng định là loại cây đa mục đích, vừa có giá trị kinh tế cao, vừa thực hiện nhiệm vụ của những cánh rừng phòng hộ, phòng chống thiên tai, bảo vệ đất, chống xói mòn. Chính vì vậy, cây cao su được quy hoạch thành các tiểu vùng đồng thời, quy hoạch phát triển hạ tầng vùng cao su, tỉnh cũng đầu tư 300km hệ thống giao thông đến vùng quy hoạch và trong vùng quy hoạch, 60 nhà đội và nhà ở công nhân, 15 nông trường, 15 làng công nhân, 15 vườn ươm cố định; quy hoạch xây dựng 7 Nhà máy chế biến mủ cao su.
Để bà con yên tâm góp đất trồng cao su, tỉnh đã thống nhất với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam về cơ chế phân chia sản phẩm khi người dân tham gia góp đất trồng cao su như: Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia góp đất trồng cao su được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định; được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng góp đất với doanh nghiệp. Thời gian góp đất ít nhất một chu kỳ sản suất cao su (27 năm). Tỷ lệ chia sản phẩm là 10% trên sản lượng vườn cây khi khai thác (trước vận chuyển và chế biến). Số sản phẩm trên được Doanh nghiệp mua theo giá thoả thuận. Giá sẽ được Doanh nghiệp thống nhất với cơ quan quản lý giá của địa phương ban hành định kỳ và trả tiền cho người góp đất 2 lần/năm. Hết chu kỳ góp đất, số diện tích vườn cây được thanh lý cũng được chia như hình thức phân chia sản phẩm. Đến nay, tổng diện tích đất góp của các hộ gia đình với các Công ty để thực hiện trồng cao su là 9.903ha; đến thời điểm hiện tại các Công ty cao su đã thực hiện ký hợp đồng góp đất đối với 2.224 hộ, đang hoàn thiện các thủ tục và tiếp tục ký kết hợp đồng góp đất với các hộ gia đình còn lại.
Từ năm 2008 đến nay, việc triển khai trồng cao su đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, từng bước ổn định và cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống cho người dân trong vùng dự án với khoảng 2.700 công nhân lao động (trong đó lao động là người địa phương chiếm trên 90%). Mức lương bình quân của công nhân trồng cao su từ 3,0 đến 3,5 triệu đồng/người/tháng và hàng nghìn lượt lao động thời vụ (thu nhập bình quân khoảng 100.000 đến 150.000 đồng/người/ngày); góp phần ổn định cuộc sống cho Nhân dân nhất là người dân vùng tái định cư. Điều đáng nói là các hộ gia đình, cá nhân tham gia góp đất trồng cao su được hỗ trợ giống cây họ đậu, lạc, lúa nương, bông, dứa, gừng… theo quy trình kỹ thuật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để các hộ gia đình trồng xen canh trên nương cao su trong 3 vụ liên tiếp, bắt đầu từ năm trồng mới. Việc phát triển cao su đại điền đã làm thay đổi căn bản bộ mặt nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở những vùng tham gia phát triển cao su đại điền.
Trong các chuyến công tác về các xã vùng cao trong tỉnh, chúng tôi được chứng kiến màu xanh bạt ngàn của những triền cao su đua nhau đâm trồi, nảy lộc; xen lẫn đó là màu xanh của lúa, ngô, lạc, đậu tương. Việc phát triển cây cao su không chỉ giúp tỉnh khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, tạo ra vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, mà còn thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho hàng ngàn lao động ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hy vọng rằng, dòng nhựa trắng từ những cánh rừng cao su hôm nay sẽ góp phần làm giàu cho người dân nơi mảnh đất biên cương cuối trời Tây Bắc.
Hiện toàn tỉnh có các tiểu vùng trồng cao su: Tiểu vùng I được quy hoạch với diện tích 26.000ha trên địa bàn 10 xã vùng thấp huyện Sìn Hồ gồm: Ma Quai, Nậm Tăm, Nậm Cha, Nậm Cuổi, Căn Co, Noong Hẻo, Nậm Hăn, Nậm Mạ, Pu Sam Cáp và một phần xã Tả Ngảo để trồng 11.500 ha cao su. Tiểu vùng II: Quy hoạch diện tích tự nhiên 3.000ha trên địa bàn 5 xã thuộc lưu vực sông Nậm Na huyện Phong Thổ gồm: Mường So, Nậm Xe, Khổng Lào, Hoang Thèn và Huổi Luông để trồng 1.600 ha cao su. Tiểu vùng III: Quy hoạch diện tích tự nhiên 14.000 ha trên địa bàn 10 xã thuộc lưu vực sông Nậm Na huyện Sìn Hồ gồm: Chăn Nưa, Lê Lợi, Pú Đao, Xà Dề Phìn, Pa Tần, Nậm Ban, Tủa Sín Chải, Làng Mô, Tả Phìn, Hồng Thu để trồng 6.500ha cao su. Tiểu vùng IV: Quy hoạch diện tích tự nhiên 15.000 ha trên địa bàn 6 xã huyện Mường Tè: Nậm Hàng, Nậm Manh, Mường Mô, Kan Hồ, Nậm Khao và Mường Tè để trồng 7.000 ha cao su. Tiểu vùng V: Quy hoạch diện tích tự nhiên 7.000 ha trên địa bàn 05 xã thuộc huyện Tân Uyên: xã Pắc Ta; huyện Than Uyên: xã Phúc Than, Mường Than, Mường Cang và thị trấn Than Uyên để trồng 3.400 ha cao su.

Tăng gần 200 đồng/lít, giá xăng RON95-III vượt ngưỡng 20.000 đồng/lít

Thúc đẩy phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản bền vững

Ưu tiên nguồn lực, quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng

Công ty Điện lực Lai Châu thành lập các đội quản lý khu vực

Thành phố Lai Châu: Đẩy nhanh tiến độ các công trình xây dựng cơ bản

Mang ấm no, hạnh phúc đến với nhân dân

Quản lý, vận hành kênh mương hiệu quả phục vụ sản xuất
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi







