

Thế nhưng cho đến nay, sau 50 năm giải phóng, vẫn tồn tại những luận điệu xuyên tạc, cố tình gọi cuộc chiến vệ quốc của nhân dân ta là “cuộc nội chiến”, đưa ra những quy kết sai trái về Ngày Giải phóng 30/4 nhằm bôi nhọ lịch sử, phủ nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
Tái diễn luận điệu sai trái, xuyên tạc
Các thế lực thù địch, phản động luôn ra rả vu cáo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là “cuộc nội chiến”. Luận điệu này có từ lâu, đến nay vẫn tái diễn.
Để làm rõ bản chất của vấn đề, trước hết cần phải hiểu đúng khái niệm “nội chiến”. Các khái niệm theo từ điển thì, nội chiến là cuộc chiến tranh giữa các phe phái, các lực lượng chính trị trong cùng một quốc gia, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Trong khi đó, cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1954 đến 1975 hoàn toàn không phù hợp với định nghĩa này. Sự thật lịch sử là sau Hiệp định Genève 1954, Mỹ đã công khai phá hoại hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành “tiền đồn chống cộng” trong chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc.
Thực ra không phải đến khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại lên làm Tổng thống thì Mỹ mới can dự vào tình hình Việt Nam. Trước đó, Mỹ là nước viện trợ nhiều nhất cho thực dân Pháp ở Đông Dương. Vào cuối năm 1950, Mỹ viện trợ cho Pháp ở Đông Dương 133 triệu USD và chuyển giao khối lượng lớn vũ khí, tàu chiến, máy bay chiến đấu, xe quân sự. Năm 1954, viện trợ của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương lên tới 1 tỷ USD (chiếm 78% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương).
Chính sử gia nổi tiếng người Mỹ Cecil B.Currey trong cuốn sách “Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp)” đã cho biết vào năm 1956, Allen Dulles, người đứng đầu của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử ở Việt Nam diễn ra theo quy định của Hiệp định Genève thì “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi”. Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.
Con số thống kê chính thức của Mỹ cho thấy, trong 21 năm (từ năm 1954 - 1975), viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hơn 26 tỷ USD. Ngoài số tiền viện trợ trên cho chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã trực tiếp đưa quân đội, vũ khí, các bộ máy quân sự, dân sự vào miền Nam. Nếu tính tất cả các loại chi phí, trong hơn 20 năm đó, Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỷ USD.
Tổng thống Mỹ Eisenhower trong nhiệm kỳ 1953-1961 trong diễn văn đọc ngày 4/8/1953 tại Seatle đã nói rõ: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa”. Tờ New York Times số ra ngày 21/10/1962 một lần nữa khẳng định về điều này: “Sự buôn bán và các sản phẩm của Đông Nam Á không phải là cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ nhưng lại là rất quan trọng đối với chúng ta và các đồng minh của chúng ta”.
Một sự thật khác chứng minh sự phụ thuộc của chính quyền Sài Gòn vào sự viện trợ của bên ngoài. Quyết tâm rút khỏi cuộc chiến đau thương và sa lầy tại Việt Nam, khi quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam theo quy định của Hiệp định Paris, Quốc hội Hoa Kỳ thấy rằng tại sao phải cần thiết chi hàng tỷ USD cho đồng minh Nam Việt Nam trong khi chính nước Mỹ lại đang cần những đồng USD đó hơn bao giờ hết. Do đó, mặc dù các phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa đã tích cực sang Hoa Kỳ để vận động Quốc hội Mỹ không cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam nhưng Quốc hội Hoa Kỳ vẫn quyết định cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam trong tài khóa 1974-1975 từ mức 1,4 tỷ USD xuống còn hơn 700 triệu USD. Tướng Mỹ Jhon Murey cho rằng “Nếu viện trợ còn 750 triệu USD, Sài Gòn chỉ còn khả năng bảo vệ một phần đất đai. Nếu xuống thấp nữa có nghĩa là xóa bỏ Việt Nam Cộng hòa”.
Điều đáng nói là chính những người bên kia chiến tuyến, trong đó ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng, Cựu Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn đã nói thật về thân phận nô lệ của chính quyền Sài Gòn: “Việt cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Trả lời trong cuộc phỏng vấn Báo Thanh Niên, số Xuân Ất Dậu (năm 2005), ông Nguyễn Cao Kỳ cũng cho biết: “Mỹ lúc nào cũng đứng ra làm kép chính, chúng tôi không có quyền lực và vai trò gì quan trọng, vì vậy nhiều người cho đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê”.
Không thể bẻ cong lịch sử
Về bản chất của chính quyền Sài Gòn cần phải được nhìn nhận một cách khách quan. Đây không phải là một chính quyền dân tộc chân chính mà thực chất chỉ là bộ máy cai trị do Mỹ dựng lên, tồn tại hoàn toàn nhờ vào súng đạn và USD của Mỹ. Từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, tất cả các đời tổng thống Sài Gòn đều do Washington chỉ định và bảo trợ. Trong khi đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, thể hiện qua các phong trào như Đồng khởi Bến Tre (1960), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) cho đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975). Sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam cũng như sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới chính là minh chứng hùng hồn nhất cho tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh vệ quốc chống các thế lực xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Một khía cạnh quan trọng khác là tính chất dân tộc và sự thống nhất ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Từ Bắc chí Nam, hàng chục triệu người như một đã đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi việc đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là mục tiêu tối thượng.
Chỉ hơn 1 tháng sau thất bại ở Việt Nam, trên tờ “Sao và vạch” (Stars and Stripes), ngày 14/5/1975, Maxwell D. Taylor, Đại tướng quân đội, từng là Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đã thừa nhận rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này…”. Còn ông Henry Kissinger, người được đánh giá là một trong những “bộ óc” thông thái nhất trong lịch sử nước Mỹ, từng là Ngoại trưởng, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ từng thốt lên rằng “không thể giải thích nổi cái gì đó đã nhen lên trong dân tộc đó những ngọn lửa anh hùng và nghị lực như vậy”!
Cùng với đó là ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Việt Nam khi ấy trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, cùng phong trào phản chiến rộng khắp ở chính nước Mỹ và phương Tây, là minh chứng hùng hồn cho tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, phong trào phản chiến tại Mỹ với những cuộc biểu tình quy mô lớn của sinh viên, trí thức, cựu chiến binh đã góp phần quan trọng buộc chính quyền Mỹ phải rút quân.
Việc cố tình gọi Chiến thắng 30/4 là kết quả của “nội chiến” thực chất là một thủ đoạn chính trị tinh vi nhằm phủ nhận thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, xóa nhòa công lao lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là thủ đoạn để các thế lực thù địch gieo rắc sự hoài nghi, làm suy yếu sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Kỷ niệm ngày 30 tháng 4 hằng năm là dịp để mỗi người dân Việt Nam càng thêm tự hào về truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông, đồng thời kiên quyết bảo vệ chân lý lịch sử, bác bỏ mọi âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Nhắc lại những điều trên không phải là để xới lại quá khứ đau thương mà để chúng ta thấy rõ tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào ta phải hi sinh biết bao máu xương mới giành được. Đó là sự thật khách quan, không thể vì bất cứ lý do gì đánh lận bản chất, xuyên tạc lịch sử. Chúng ta cũng hiểu rằng, trong giai đoạn cách mạng mới, thông điệp hôm nay là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, vì hoà bình, ổn định và phát triển. Kỷ niệm ngày 30/4 cũng là dịp để tôn vinh những giá trị bất diệt của lòng vị tha, của hòa bình, hòa giải và hàn gắn, của tinh thần gác lại quá khứ để hướng tới tương lai…

Thể lệ Cuộc thi Chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, năm 2025

Thể lệ Giải Báo chí tỉnh Lai Châu về xây dựng Đảng giai đoạn 2022-2025

“Thần tốc - Quyết thắng” chào mừng 50 năm thống nhất non sông

Tự hào truyền thống 80 năm – Công an tỉnh Lai Châu góp phần hiện thực hóa khát vọng vươn mình của dân tộc

Thắng lợi của chính nghĩa và bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Lễ đón Thủ tướng Nhật Bản và Phu nhân thăm chính thức Việt Nam

Kỳ họp thứ hai mươi tám (Kỳ họp chuyên đề) HĐND tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh viếng Nghĩa trang liệt sỹ tỉnh và dâng hoa Tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc tỉnh Lai Châu





