

Hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch, Bộ đội Cụ Hồ hò dô kéo pháo; từng đoàn dân công tải lương, mở đường; Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng… chẳng thể nào quên. Đặc biệt lá Cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát-xtơ-ri, người dân nô nức đón mừng chiến thắng... là dấu ấn của một dân tộc Việt Nam anh hùng.
Du khách tham quan Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau khi giành được độc lập (9/1945), cách mạng nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”, “thù trong, giặc ngoài”, “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Trong đó, thực dân Pháp được sự hậu thuẫn của các thế lực đế quốc núp bóng đồng minh quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân lại tiếp tục đứng lên, anh dũng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, đầy hy sinh, gian khổ chống kẻ thù xâm lược.
Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính” và tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” quân và dân ta đã đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ lần lượt đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Bước vào thu đông năm 1953, thực dân Pháp (có sự can thiệp của Mỹ) đã cho ra đời bản Kế hoạch Nava nhằm tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Nhưng thực dân Pháp càng tăng cường cho chiến tranh bao nhiêu thì thất bại bấy nhiêu.
Đêm diễn nghệ thuật chào mừng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Quân và dân ta đã mở nhiều chiến dịch trên các chiến trường, giành thắng lợi ở nhiều nơi, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng, đẩy địch vào tình thế bị động chiến lược. Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của quân ta vào khu vực Tây Bắc, Lai Châu, Thượng Lào, thực dân Pháp đã nhanh chóng cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ và xây dựng Điện Biên Phủ thành một Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương và coi đây là “một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta.
Thời cơ đã đến, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị đã họp, nhận định tình hình và ra một quyết định lịch sử - mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, công tác chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương, Nhân dân cả nước lên đường hướng về Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực của ta nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi để mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng cho chiến dịch. Hàng trăm ngàn dân công, thanh niên xung phong bất chấp gian khổ, bom đạn hướng về chiến dịch Điện Biên Phủ bảo đảm hậu cần, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến đấu.
Cùng với quân và dân cả nước, nhân dân các dân tộc Tây Bắc nói chung, hai tỉnh Lai Châu, Điện Biên nói riêng đã dốc sức, đồng lòng hướng về chiến dịch. Với nhiệm vụ cấp bách lúc này là tập trung xây dựng các vùng được giải phóng, ra sức tăng gia sản xuất để ổn định đời sống và cung cấp lương thực cho chiến dịch, vận động toàn dân tham gia chiến dịch. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, trên khắp miền Tây Bắc, Lai Châu và Điện Biên, từ vùng thấp đến vùng cao, từ biên giới đến nội địa, từ vùng tự do đến vùng địch tạm chiếm, đồng bào các dân tộc: Thái, Mường, Kinh, Mông, Dao, Hà nhì, Mảng, Khơ mú… đã xung phong lên đường tham gia tiếp lương, tải đạn.
Phụ nữ Tây Bắc xưa nay chỉ quen với công việc quay sợi, dệt vải, nội trợ gia đình nay theo tiếng gọi của Đảng lên đường làm nhiệm vụ, chẳng quản khó khăn, gian khổ, bom đạn, hy sinh cùng nam giới làm đường, gánh gạo, tải thương. Để có đủ gạo ăn cho bộ đội đồng bào các dân tộc đã phải giã gạo vào cả ban đêm (việc mà trước đây kiêng kỵ), kể cả nam giới cũng tham gia giã gạo mà trước đây chỉ có phụ nữ làm. Có nhiều gia đình đã mang ngựa của nhà mình đi tải đạn, vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch nhiều tháng. Nhiều người đã hết thời gian phục vụ theo quy định tình nguyện ở lại, ngày đêm cùng bộ đội lăn lộn trên các tuyến đường.
Chỉ tính riêng 2 tỉnh Lai Châu - Điện Biên đồng bào các dân tộc đã tham gia 16.972 dân công (tính ngày công bằng 568.139 ngày công); đóng góp phục vụ chiến dịch 2666 tấn gạo (vượt 64 tấn), 226 tấn thịt (vượt 43 tấn), 210 tấn rau xanh; huy động được 348 ngựa thồ, 62 thuyền, hàng trăm mảng để vận chuyển lương thực, tải đạn; góp 25.070 cây gỗ các loại để chống lầy, làm đường cho xe pháo và bộ đội vượt qua. Tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ, 2 tỉnh Lai Châu - Điện Biên có 700 cá nhân xuất sắc, 9 xã điển hình, 38 bản gương mẫu được Trung ương và Khu ủy Tây Bắc tặng bằng khen và nhiều hình thức khen thưởng khác về thành tích trong công tác phục vụ chiến dịch.
Sau chín năm kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ, đặc biệt sau 55 ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơ vắt”, “vai không núng, chí không mòn”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, sự chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã làm nên một chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đập tan toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết hiệp định Giơ Ne Vơ, chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Đã hơn nửa thế kỷ đi qua, chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn là bài ca hùng tráng, là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử thế giới và dân tộc. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thể hiện tinh thần, trí tuệ, bản lĩnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng của dân tộc ta trong đấu tranh dành độc lập dân tộc. Nói về giá trị, ý nghĩa trọng đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân kỷ niệm 10 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/1964), Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ghi vào sổ lưu niệm của bảo tàng Điện Biên Phủ: “Trước đây 10 năm, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của Đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ còn khẳng định vai trò và sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, Bác Hồ và Bộ Chỉ huy chiến dịch trong việc đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, phương pháp cách mạng khoa học, biết tạo thời cơ và tận dụng thời cơ để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Đảng ta đã thành công trong phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đường lối chiến tranh nhân dân. Cả dân tộc là một pháo đài, mỗi người dân là một người lính. Tất cả hướng về một mục đích độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với tầm vóc và ý nghĩa lịch sử, chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son vàng đặt dấu chấm hết cho chế độ thực dân xâm lược Pháp trên đất nước ta, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, đưa Việt Nam sang trang mới và vị trí mới trên trường quốc tế.
Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến thắng Điện Biên Phủ luôn được Đảng, quân và dân kế thừa và phát huy trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Chính những giá trị vô giá đó đã giúp dân tộc ta đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền nam, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt thành tựu rực rỡ trong gần 30 năm đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã giúp nước ta vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Kỷ niệm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc ra, tưởng nhớ đến công lao của Đảng, Bác Hồ; tri ân đến những đồng chí, đồng đội và đồng bào đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hòa bình, dân chủ thế giới.
Đối với với nhân dân Tây Bắc, 2 tỉnh Lai Châu và Điện Biên chiến thắng Điện Biên Phủ là dấu ấn không thể nào quên. Nhờ Đảng, Bác Hồ và sự chiến đấu hy sinh của lớp lớp cha ông đi trước Tây Bắc, Lai Châu và Điện Biên ngày nay đã có nhiều khởi sắc. Kinh tế có bước tăng trưởng khá, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, quốc phòng an ninh được giữ vững và tăng cường, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Đến nay Tây Bắc, lai Châu và Điện Biên đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, nhiều tỉnh đã vươn lên tiến kịp miền xuôi. Phát huy truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng, nhân dân các dân tộc Tây Bắc, Lai Châu – Điện Biên nguyện đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu vì Tây Bắc, Lai Châu – Điện Biên giàu, đẹp, văn minh, môi trường thân thiện.
Tin đọc nhiều

Đại hội Chi bộ Ban Tổ chức Tỉnh ủy lần thứ V, nhiệm kỳ 2025 – 2030
Hội Cựu chiến binh tỉnh: Hội nghị Ban Chấp hành mở rộng lần thứ 7 khoá VII

Địa phương đầu tiên của huyện Tân Uyên hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát

Kỳ 2: Ý Đảng – thuận lòng dân

Học Bác để phát triển nông nghiệp bền vững

Học Bác là “tự soi, tự sửa, tự vươn lên” vì nhân dân

Bồi đắp lý tưởng cho thanh niên

Lai Châu sắp xếp lại bộ máy: Khi người dân và chính quyền cùng đồng hành đổi mới




![[Video] Tổ chức trọng thể Lễ truy điệu nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương](https://baolaichau.vn/uploaded/post/2025/05/25/440baab9-2a50-4ed3-91e5-0ed29dd91396.png)





