

Thấu triệt tư tưởng nhân văn, hòa bình của dân tộc Việt Nam
Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào bị thực dân và tay sai áp bức, bóc lột rất dã man và tàn bạo đã nung nấu trong người thanh niên trẻ tuổi, giàu lòng yêu nước Võ Nguyên Giáp ý chí sôi sục và quyết tâm đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Với lòng yêu nước nồng nàn, đồng chí sớm giác ngộ tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và đi theo con đường cách mạng của Người: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, từ năm 1940, khi được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp huấn luyện, dìu dắt, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt, trở thành người học trò xuất sắc, gần gũi và tin cậy. Được làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều năm, trong những thời khắc quan trọng của cách mạng, Võ Nguyên Giáp càng thấu triệt sâu sắc những tư tưởng vĩ đại và tầm nhìn chiến lược của vị lãnh tụ tối cao, nhất là tư tưởng không có gì quý hơn độc lập, tự do; tư tưởng nhân văn, hòa bình; chiến đấu vì chính nghĩa để giải phóng dân tộc; chiến đấu vì hòa bình, tự do và công lý, vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân...
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, với trí tuệ sắc bén của một nhà chính trị-quân sự và quan điểm thực tế của một nhà sử học, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần khẳng định dân tộc Việt Nam mong muốn hòa bình, nhưng đó phải là một nền hòa bình thực sự, phù hợp với những giá trị pháp lý quốc tế và giá trị nhân văn của loài người. Tháng 4/1946, tại Hội nghị Đà Lạt bàn về việc thực hiện Hiệp định sơ bộ 6/3 (Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt, công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp), trước thái độ thiếu thiện chí của phía Pháp, đồng chí kiên quyết nêu quan điểm: “Chúng tôi muốn hòa bình, đúng thế, nhưng là một nền hòa bình trong tự do và công bằng, một nền hòa bình phù hợp với Hiệp định sơ bộ 6/3 chứ không phải hòa bình trong nhẫn nhục, mất danh dự và nô lệ”, “Chúng tôi đã nhiều lần chứng tỏ thiện chí của mình. Nếu các ông muốn hòa bình thì sẽ có hòa bình. Còn nếu không, muốn chiến tranh thì sẽ có chiến tranh”.
Rõ ràng, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, cầm quân chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng vô cùng vẻ vang, oanh liệt, Đại tướng luôn phấn đấu vì một lý tưởng và mục đích cao đẹp đó là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do và đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hay nói cách khác, mục tiêu chiến đấu của Đại tướng là vì chính nghĩa, vì hòa bình và vì nhân dân. Đại tướng không chỉ cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn góp phần cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, chống áp bức, bóc lột, bất công ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin. Điều đó càng làm cho tên tuổi của Đại tướng được thế giới vinh danh, ngưỡng mộ, cảm phục một vị tướng vì nhân dân, vị tướng vì hòa bình.
Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai
Suốt cả cuộc đời thực hiện “Dĩ công vi thượng” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn luôn đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, tìm cách thu hẹp bất đồng, mâu thuẫn, khép lại quá khứ để hướng tới tương lai tốt đẹp cho các bên. Đồng chí cho rằng, vì độc lập dân tộc, vì hòa bình, hạnh phúc của nhân dân nên chỉ huy Quân đội để tiến hành chiến tranh vệ quốc. Khi chiến tranh đã qua rồi, cần phải hướng tới những điều tốt đẹp trong tương lai cho đất nước, cho dân tộc và cho cả thế giới. Đó mới là những việc làm quan trọng và có ý nghĩa.
Trong rất nhiều lần đón tiếp, trao đổi, trò chuyện với các chính khách, nhà báo nước ngoài, kể cả những người từng ở bên kia chiến tuyến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn tinh tế, lịch thiệp và thẳng thắn thể hiện rõ thiện chí yêu chuộng hòa bình của mình và cả dân tộc Việt Nam. Năm 1991, đạo diễn người Pháp, Daniel Roussel, là tác giả của nhiều bộ phim tài liệu về chiến tranh ở Việt Nam đến gặp Đại tướng để làm phim. Đại tướng rất thân mật nói bằng tiếng Pháp với Daniel Roussel rằng, làm phim về chiến tranh, nhưng không phải vì chiến tranh, mà để phục vụ cho hòa bình, thì những thước phim đó sẽ sống mãi với thời gian.
Năm 1995, trong cuộc gặp với Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ tại Nhà khách Bộ Quốc phòng (Hà Nội), nói về những cơ hội có thể cứu vãn hòa bình ở Việt Nam đã bị bỏ qua, Đại tướng chỉ rõ: “Trong khi kiên quyết chiến đấu chống xâm lược, Việt Nam cũng rất mong muốn kết thúc chiến tranh... Có thể nói rằng, phía Việt Nam đã không bỏ lỡ một cơ hội nào vì dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu hòa bình hơn ai hết và chiến tranh sẽ mang lại đau khổ trước hết cho người Việt Nam”. Đồng chí nhấn mạnh, dân tộc Việt Nam là một dân tộc mà ý thức và quyết tâm bảo vệ độc lập đã trở thành một triết lý, bản sắc văn hóa và cũng là một nguyên tắc không gì lay chuyển. Những lời chia sẻ chân tình của Đại tướng đã làm cho cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ rất xúc động.
Tình cảm và thiện chí tốt đẹp mà Đại tướng dành cho những vị khách quốc tế một lần nữa khẳng định khát vọng hòa bình, độc lập của nhân dân Việt Nam, đồng thời tiếp tục thể hiện truyền thống nhân văn, hòa bình của dân tộc, mong muốn khép lại quá khứ, hướng tới tương lai mà trước đây các bậc tiền nhân trong lịch sử đã từng thực hiện khi kết thúc chiến tranh chống xâm lược. Đó là tinh thần: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” nhằm mang lại nền thái bình muôn thuở và dập tắt muôn đời chiến tranh cho các thế hệ mai sau.
Bế giảng lớp Trung cấp lý luận chính trị khóa 5 năm 2024

Tổng Bí thư Tô Lâm trao danh hiệu AHLĐ cho nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình

Thư chúc mừng của Tổng Bí thư Tô Lâm nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lai Châu làm việc với Tập đoàn Sun Group

Đồng chí Trần Lưu Quang giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh

Bí thư chi bộ tiêu biểu

Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Nậm Tăm lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030
Đảng bộ xã Nậm Sỏ: Đại hội Đại biểu lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030






