

Người dân bản Nậm Bon 1, xã Phúc Khoa (huyện Tân Uyên) thu hái chè.
Đến xã Phúc Khoa những ngày này, trên khắp các đồi chè đến cánh đồng đâu đâu cũng thấy không khí lao động khẩn trương. Theo quy luật, mỗi lứa chè sau khi thu hái xong, cây chè phải mất một thời gian để phát triển tạo búp mới.
Để rút ngắn khoảng cách giữa các lứa, tăng sản lượng, đòi hỏi phải kết thúc thu hái lứa chè trong thời gian ngắn nhất. Dù có cách chăm sóc khác nhau nhưng hầu hết những gia đình trồng chè trong xã đều huy động tối đa nguồn nhân lực của gia đình, thuê lao động, đổi công hái chè mỗi khi đến lứa mới.
Nhà neo người, lại có ruộng, khi 4.000m2 chè đến lứa hái, chị Vùi Thị Chè, ở bản Nậm Bon 1, xã Phúc Khoa phân công thành viên trong gia đình đảm nhiệm các công việc. Chồng làm đất chuẩn bị cấy lúa vụ mùa, chị và các con lên nương hái chè. Tuy nhiên, bản có 50 hộ dân thì có tới 70% số hộ có đất trồng chè nên khó khăn lắm chị mới nhờ được 2 chị cùng bản hái đổi công. Chị Chè tâm sự: “Nhà nông chỉ vất vả những lúc vào vụ sản xuất. So với làm ruộng, cây chè đòi hỏi suất đầu tư, công chăm sóc nhiều, thu nhập cao hơn. Gia đình tôi 1 tháng hái 4 lứa chè, bình quân 1 triệu đồng/lứa. Trồng chè cho thu nhập cao nên bà con mừng lắm, giờ gia đình nào còn đất vẫn tiếp tục trồng để mở rộng diện tích’’.
Nhận thấy diện tích đất nông nghiệp của xã là 411ha, trong đó đất sản xuất phụ thuộc vào khe suối nhỏ, nguồn nước mưa để tưới tiêu là 50ha. Lúa nương, đất trồng sắn, ngô với diện tích gần 300ha, do kỹ thuật canh tác trên đất dốc của bà con còn hạn chế nên mùa mưa thường bị xói mòn và sạt lở đất. Diện tích còn lại là đồi núi và đất có độ dốc cao nên khó canh tác, xã xác định phải khai thác triệt để các vùng đất có độ dốc vừa phải để trồng cây chè. Đảng bộ xã đã ra Nghị quyết chuyên đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng sắn, ngô, lúa trên nương, đồi sang trồng cây công nghiệp dài ngày đó là cây chè.
Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, xã đã đẩy mạnh phong trào thi đua tới nhân dân nêu cao tinh thần tự lực, tập trung khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương để phát triển vùng chè nguyên liệu. Và dự án trồng chè được chính quyền và nhân dân trong xã thực hiện vào năm 1999. Năm 2003, toàn xã đã trồng được 150ha, trong đó 100ha đã cho thu hoạch. Đến nay toàn xã đã có trên 200ha chè, trong đó diện tích chè kinh doanh 150ha còn lại chè kiến thiết cơ bản.
Trong quá trình trồng, chăm sóc, thu hái, các hộ dân được Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Ngân hàng Nông nghiệp huyện tạo điều kiện cho vay vốn ưu đãi thông qua các chương trình, nguồn vốn vay hộ nghèo, tạo việc làm… đầu tư cho cây chè. Công ty Cổ phần Trà Than Uyên, các hộ dân có máy chế biến chè mini bao tiêu sản phẩm. Nhờ đó tạo việc làm cho 850 lao động địa phương có thu nhập ổn định từ 1,5 – 2 triệu đồng/người/tháng.
Qua thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng thống kê huyện cho thấy hiện nay nguồn thu từ 1ha chè cho sản phẩm từ 8 – 14 tấn/năm, mang lại thu nhập từ 40 – 70 triệu đồng/ha.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành công đã góp phần tăng số hộ khá, giàu và giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm. Điều đáng nói là từ vùng chè nguyên liệu đã giúp Phúc Khoa trở thành xã phát triển kinh tế đa ngành, đa nghề; bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc.
Tin đọc nhiều

Phát triển chăn nuôi theo hướng thương phẩm
Trái cây dân dã vào mùa

Phát triển sản xuất nông sản hàng hoá gắn với tiêu thụ sản phẩm

Phát triển vùng nguyên liệu sắn dây
Nậm Nhùn được mùa lúa Đông Xuân

Cây quế giúp bà con Pha Mu nâng cao thu nhập

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng

Huyện Tam Đường: Bảo vệ rừng từ quản lý chặt chẽ xử lý thực bì





