

Tìm hiểu chúng tôi được biết, thời gian để tổ chức lễ cưới chính thức thường vào khoảng từ tháng tám đến đầu mùa xuân vì bà con quan niệm mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi, nảy lộc, hai vợ chồng sẽ sinh được nhiều con cái. Nhất là thời gian này là thời gian nông nhàn, thời tiết khô ráo, thuận lợi cho việc tổ chức hôn lễ. Việc chọn ngày, tháng để tổ chức đám cưới cũng được đồng bào các dân tộc rất coi trọng. Khi đã chọn được ngày lành, gia đình sẽ mời tất cả họ hàng, anh em, bạn bè thân thiết đến dự lễ cưới và chúc phúc cho hai vợ chồng.
Tổ chức lễ cưới, hầu hết đều phải có một số bước như: dạm hỏi, dạm ngõ, lễ cưới, lại mặt… Thường là trước ngày cưới, gia đình làm cơm mời ông mối hoặc bà mối là người già có uy tín trong bản về giúp đỡ gia đình. Ông mối là người thay mặt cho gia đình nhà trai đến thưa chuyện, bàn bạc các công việc liên quan đến đám cưới với họ nhà gái như: ngày chính thức đón dâu, những lễ vật mà nhà gái yêu cầu nhà trai đáp ứng. Trong ngày tổ chức đám cưới, ông lại là người chủ trì hôn lễ, giúp gia đình chuẩn bị lễ vật, xử lý các tình huống xảy ra trong ngày cưới, thực hiện các nghi lễ theo phong tục truyền thống của dân tộc mình.
Cô dâu chú rể người Dao Khâu, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ cùng đại diện 2 họ ra mắt bà con họ hàng sau khi đã hoàn thành các thủ tục.
Để tổ chức đám cưới truyền thống, gia đình nhà trai thường phải chuẩn bị lễ vật mà nhà gái yêu cầu. Số đồ lễ, cũng như giá trị của các đồ lễ nhiều hay ít phụ thuộc vào phong tục tập quán của mỗi dân tộc. Lễ cưới của người Thái thường gồm các lễ vật như: trầu cau, rượu, thuốc lào, bánh kẹo, hoa quả, thịt gà, thịt lợn, gạo nếp, gạo tẻ, cá... Còn đối với người Khơ Mú, lễ vật gồm: lợn thịt lợn, gạo, rượu, gà, chăn, đệm,.. Trong lễ cưới của người Si La chỉ cần gà, rượu, trầu cau, để làm mâm cơm báo cáo tổ tiên và họ hàng. Cũng có trường hợp người con trai cùng cô gái về nhà mình rồi mới thông báo cho gia đình nhà gái biết và mang một số lễ vật đến làm lễ bên nhà gái. Ngày nay, tục thách cưới của đồng bào các dân tộc ở Lai Châu đã giảm hẳn so với trước, thịt, rượu, gạo chuẩn bị đủ cho bà con họ hàng đến chúc mừng ăn uống vui vẻ là được.
Ông Lò Văn Sam – Dân tộc Thái xã Mường Kim, huyện Than Uyên cho biết, lễ cưới người Thái được tổ chức vào ngày tốt, hợp với duyên số cả đôi bên trai gái, thường diễn ra từ tháng tám đến cuối tháng ba. Lễ cưới được tiến hành trong ba ngày. Ngày thứ nhất, gia đình nhà trai chuẩn bị một số công việc cho ngày cưới, làm cỗ đón khách, ông mối dặn dò chàng rể và những người đi đón dâu một số nghi lễ truyền thống và gia đình chuẩn bị lễ vật để mang sang nhà gái làm cơm thiết đãi khách. Ngày hôn lễ chính, nhà trai chọn giờ xuất phát, đoàn nhà trai gồm ông mối, phù rể cùng một số người thân mang lễ vật đi theo. Trong lễ cưới, mọi người đều phải mặc trang phục truyền thống. Mọi nghi lễ phải tiến hành như lễ xin vào cửa, lạy cúng tổ tiên, lạy bố mẹ họ nhà gái rồi mọi người cùng uống rượu chúc phúc cho hai vợ chồng. Sau lễ cưới, hai vợ chồng về bên nội, cô dâu mang một số quà như khăn, quần áo để tặng bố mẹ chồng. Ngày hôm đó, gia đình tổ chức làm cơm cúng tổ tiên và mời họ hàng uống mừng cho cô dâu mới, chúc đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc, sớm có con.
Còn đối với người Si La ở huyện Mường Tè, bà Hù Cố Lo - Bản Seo Hai, xã Can Hồ cho biết, các nghi lễ tổ chức đám cưới rất đơn giản. Ông mối đến nhà cô gái đặt vấn đề và bàn bạc thống nhất các nội dung để tổ chức hôn lễ. Gia đình cũng chọn ngày đẹp ngày tốt để tổ chức lễ cưới. Lễ cưới được diễn ra hai bước, bước một, đến ngày đã hẹn trước, chị hoặc em gái của chàng trai sẽ đến nhà cô gái thật sớm ngỏ lời xin dâu. Ngày sau đó đoàn nhà trai đến nhà cô gái xin đón dâu. Mẹ hoặc chị của cô dâu sẽ dắt cô ra cửa trao cho cô gái của gia đình nhà trai. Về đến nhà, mọi người phải ngồi ngoài cửa nhà đợi bố mẹ chồng đưa cho quần áo, khăn mới cho cô dâu thay. Gia đình chuẩn bị sẵn một quả trứng, một nắm xôi thể hiện sự mong mỏi về đường con cái, tài lộc của đôi vợ chồng trẻ. Hai vợ chồng trao nhau trứng và xôi trước sự chứng kiến của tổ tiên. Hai vợ chồng phải ăn hết xôi và trứng trước cửa, đợi khách trong nhà ăn xong thì đoàn đón dâu mới được vào nhà. Khi hai gia đình đã chuẩn bị tươm tất, nhà trai mang một chiếc đùi lợn và gan lợn sang nhà gái để làm lễ cúng tổ tiên. Nhà trai cũng phải đưa cặp tân hôn đến làm lễ cúng tổ tiên nhà mình. Sáng hôm sau, hai vợ chồng mang rượu sang nhà gái để làm lễ lại mặt. Lúc này, cha mẹ cô gái mới thực hiện việc tặng quà cho cô con gái đi lấy chồng. Kết thúc lễ cưới, hai bên gia đình đều tổ chức làm lễ lại mặt và lễ cảm ơn ông mối.
Với người Mông thì khi khi đôi trai gái đồng ý cưới nhau, chàng trai sẽ báo trước cho người yêu biết ngày và nơi mà cô sẽ bị “bắt”. Theo tục lệ “bắt vợ” này, sau 3 ngày bị “bắt”, nếu cô gái không trốn khỏi nhà trai có nghĩa là cô đã đồng ý cưới chàng trai. Sau đó, cha mẹ chàng trai nhờ ông mối chọn ngày lành tháng tốt làm lễ cưới. Cô gái được trở về nhà để chuẩn bị tư trang và váy áo cho đám cưới rồi đam cưới mới diễn ra. Trong lễ cưới người Mảng, Cống khi đón dâu có nghi thức độc đáo là họ nhà trai mang tư trang của cô dâu đi trước và chọn một số thanh niên nam nữ xinh đẹp, khỏe mạnh làm lý giằng co với nhà gái đưa cô dâu về. Đoàn nhà gái còn té rượu, nước bùn, tro, nhọ nồi vào khách để thêm may mắn, hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Người Khơ Mú và một số dân tộc khác trước đây lấy vợ phải ở rể để nhằm thử thách tính cần cù, siêng năng, khả năng lao động và đạo đức của chú rể…
Bà con họ hàng ăn uống chúc mừng đôi vợ chồng trẻ trong đám cưới người Thái, xã Mường Kim, huyện Than Uyên.
Đặc biệt nhất là trong đám cưới không thể thiếu những bài hát chúc phúc và cả những điệu múa vui nhộn, điều này làm cho đám cưới không chỉ mang ý nghĩa mừng vui cho hai gia đình, cho đôi vợ chồng trẻ mà còn thực sự là một sinh hoạt văn hoá mang tính chất cộng đồng. Đám cưới của người Thái hay người Mảng thường tổ chức múa xoè vào buổi tối trước ngày đưa dâu hoặc đón dâu về. Đám cưới của người Cống lại có các điệu múa mừng đám cưới gắn liền với các tặng phẩm như con gà, cái khăn, cái áo... Động tác múa của bà con tuy không phong phú nhưng có ý nghĩa đặc sắc và mang đậm dấu ấn văn hoá tộc người. Các bài hát trong nghi lễ đám cưới của đồng bào các dân tộc hiện nay còn lưu giữ được rất nhiều, đặc biệt là ở các dân tộc như Thái, Dao, Lự, Giáy …
Ngày nay, lễ thức cưới của bà con các dân tộc tỉnh ta đã loại bỏ rất nhiều các hủ tục như thách cưới, ăn uống linh đình trong nhiều ngày cho phù hợp với lối sống văn minh hiện đại song cơ bản vẫn giữ được những nét riêng, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa các dân tộc Lai Châu.
Tin đọc nhiều

Hội thi hái chè, sao chè tại xã Phúc Khoa

Biển Cửa Lò – Quyến rũ mùa du lịch

Khu di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh - Điểm đến hấp dẫn của xứ Thanh

Chương trình “Dạ hội Thanh niên”

Du lịch Hải Dương trên đà khởi sắc

Sầm Sơn điểm đến hấp dẫn mùa hè

Hiện thực hóa khát vọng trở thành trung tâm du lịch của vùng Tây Bắc
Côn Sơn - Kiếp Bạc: Nơi hội tụ tinh hoa đất trời nổi tiếng Hải Dương






